1. a) Học sinh đọc kĩ tất cả các câu rồi vận dụng kiến thức về chủ ngữ và vị ngữ, đặt câu hỏi để tìm chủ ngữ, vị ngữ nhằm phát hiện lỗi ngữ pháp trong câu. Sau đó em loại trừ các câu đã đúng ngữ pháp.
b) Học sinh phải xác định các lỗi ngữ pháp cụ thể trong câu, câu nào thiếu chủ ngữ, câu nào thiếu vị ngữ, câu nào thiếu cả hai. Trong mỗi câu sai tìm được, học sinh tìm ra cách chữa. Một câu sai có thể có nhiều cách chữa. Học sinh cần tìm cách chữa phù hợp nhất với ý định của người viết.
Ví dụ : Câu (b) sai vì người viết đặt "việc" trước một câu có cấu tạo là một cụm C - V do vậy đã biến toàn bộ thành cụm danh từ có đủ tư cách làm chủ ngữ. Chính vì vậy kiểu câu sai này mới gọi là câu thiếu vị ngữ. Cách chữa : thứ nhất là bỏ từ "việc" để câu có cấu tạo chủ - vị, thứ hai có thể thêm một vị ngữ thích hợp. Chẳng hạn ta thêm : "là một vinh dự cho nhà trường". Lưu ý : Các câu trong bài tập này có bốn câu đúng.
2. Học sinh đọc kĩ các câu chưa hoàn chỉnh. Trong mỗi câu, cần chú ý quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận trong câu để phát hiện bộ phận còn thiếu là chủ ngữ, vị ngữ hay cả chủ ngữ lẫn vị ngữ để điền vào cho thích hợp.
Chú ý : Câu (a) từ đứng đầu. Câu (b) có từ qua đứng đầu và từ thấy là động từ làm vị ngữ. Câu (c) mới chỉ thể hiện một cách thức. Câu (d) mới chi thể hiộn nguyên nhân. Câu (đ) mới chỉ thổ hiên một cách thức. Câu (e) bộ phận dầu chi mới là điểu kiên để dưa dến sự việc. Câu (g) có từ qua đứng đầu và trôi là động từ làm vị ngữ
3. a) Câu này sai ở chỗ chiếc xe đạp không thể hát vang bài hát được, chỉ có Thuý là vừa đạp xe, vừa hát. Học sinh chữa lại cho đúng.
b) Đọc câu này người đọc không hiểu được ai trả lại cho em cái bút. Học sinh chữa lại cho đúng.
c) Học sinh chú ý cầu thang có thể đưa em lên tận gác hai và cửa, nhưng không thể tiến vào lớp được. Còn em lại có thể theo cầu thang lên gác đến cửa và tiến vào lớp học. Học sinh chữa lại câu này cho đúng.