Đề 1 : - Yêu cầu về nội dung : Kể lại truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt : Dùng ngôi kể thứ nhất (nhân vật bà Âu Cơ trực tiếp kể chuyện). Vì vậy ở phần đầu bài văn có thể tạo tình huống để nhân vật xuất hiện và đóng vai người kể. Đối tượng nghe là các cháu của bà Âu Cơ (có thể mở đầu bằng những câu đối thoại giữa bà và cháu). Mặt khác, vì người kể là bà Âu Cơ nên trình tự kể trong nội dung chính có thể thay đổi : Không nên bắt đầu bằng lời giới thiệu về Lạc Long Quân, mà phải để cho bà Âu Cơ tự giới thiệu về mình trước... Hoặc trong quá trình kể, bà Âu Cơ có thể trực tiếp bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của mình (sự ngạc nhiên thích thú khi đặt chân lên miền đất Lạc Việt, nỗi buồn khi thiếu vắng Lạc Long Quân,...).
Đề 2 : - Yêu cầu về nội dung : Kể lại truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.
- Yêu cầu về hình thức : Kể theo ngôi thứ nhất (Lang Liêu trực tiếp kể chuyện). Theo đề ra, Lang Liêu kể lại toàn bộ diễn biến về sự ra đời của hai loại bánh trong buổi lễ dâng quang. Vì vậy, không thể dùng lại thứ tự kể cũ mà cần phải thay đổi. Mở đầu câu-chuyện là không khí của buổi lễ đăng quang. Từ dó, Lang Liêu mới lần lượt kể lại quá trình diễn biến của câu chuyện : Việc vua cha nêu yêu cầu về lễ vật, nỗi lo lắng buồn rầu của chàng khi thấy mình thất thế, sự xuất hiện vị thần trong mơ cùng với lời khuyên, những suy nghĩ của Lang Liêu khi làm từng loại bánh, niềm vui bất ngờ của chàng trước lời tuyên bố của vua Hùng.
Đề 3 : - Yêu cầu về nội dung : Kể lại truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh.
- Yêu cầu về hình thức : Có thể dùng ngôi kể thứ nhất hoặc ngôi kể thứ ba. Theo yêu cầu của đề thì Thuỷ Tinh găp lại Mị Nương để thanh minh chuyện cũ. Do đó thứ tự kể phải đi từ hiện tại rồi quay về quá khứ. Mặt khác, trong bài làm phải hình dung được những lời đối đáp giữa hai nhân vật Thủy Tinh và Mị Nương. Những lời đối đáp này phải xen vào giữa câu chuyện kể của Thuỷ Tinh, mục đích chính là tạo điều kiện cho Thuỷ Tinh thanh minh về nỗi oan của mình. Câu chuyện có thể chọn một cách kết thúc mới theo khả năng sáng tạo của người viết.
Đề 4 : - Yêu cầu : về nội dung : kể lại truyện cổ tích Ông lão đánh cá và con cá vàng.
- Về hình thức diễn đạt : cũng dùng ngôi kể thứ nhất (nhân vật mụ vợ kể chuyện). Vì vậy, cốt truyện có thể thay đổi ở một số chi tiết, mở đầu không phải là cảnh ông lão giải thoát cho con cá vàng ngoài biển cả mà phải là cảnh mụ vợ đang ngồi trong túp lều nát bên cạnh cái máng lợn ăn sứt mẻ... Mụ vợ là người kể nên trong quá trình dẫn dắt cốt truyện phải để cho mụ trực tiếp bộc lộ những suy nghĩ, những thái độ của mình (tức giận khi nghe ông lão kể chuyện thả con cá vàng, ngồi mơ những viễn cảnh trong tương lai, khát vọng được đổi đời,...). Có thể kết thúc câu chuyện bằng một bài học mà mụ vợ tự rút ra cho mình khi ngồi trước cái máng lợn ăn sứt mẻ trong túp lều rách nát.
Đề 5 : - Yêu cầu về nội dung : Kể lại truyện Cây khế theo một cách kết thúc mới.
- Yêu cầu về cách thức diễn đạt: cũng dùng ngôi kể thứ nhất (người anh tự kể lại câu chuyện). Yêu cầu này bắt buộc cách kết thúc phải thay đổi. Nếu theo cách kết thúc cũ, để người anh chết giữa biển khơi thì anh ta làm sao có thể kể lại câu chuyện này. Do đó, kết thúc mới cho truyện Cây khế phải là người anh vẫn sống để trở về sau khi đã tự rút ra cho mình một bài học nhớ đời về thói tham lam. Có thể để cho hai anh em từ đó sống hoà thuận.
Đề 6 : - Yêu cầu về nội dung : Kể lại quá trình phấn đấu của một học sinh (từ chỗ học kém, vươn lên trở thành một học sinh khá).
- Yêu cầu về hình thức : Dùng ngôi kể thứ nhất (nhân vật tự kể về mình). Thứ tự kể không nên theo trình tự thời gian xuôi chiều (từ quá khứ đến hiện tại) mà có thể bắt đầu câu chuyện bằng hiện tại (kết quả phấn đấu của nhân vật). Sau đó nhớ lại quá trình phấn đấu. Ngoài nhân vật người kể chuyện, có thể đưa vào một số nhân vật khác (cô giáo, bạn, mẹ,...).
- Một số lưu ý : Cốt truyện này không cần thiết phải có sự sáng tạo nhiều. Tuy vậy, người kể phải chú ý đến tính hợp lí của nó. Chẳng hạn như quá trình thay đổi từ một học sinh kém vươn lên thành một học sinh khá không thể diễn ra trong một thời gian ngắn (một tháng, một học kì) mà phải có một thời gian vừa phải, đủ để thay đổi lực học của người kể chuyện (một năm, hai năm). Mặt khác, việc phấn đấu từ một học sinh kém lên một học sinh khá đòi hỏi phải vượt qua nhiều khó khăn thử thách, không dễ dàng gì. Thậm chí phải để cho nhân vật có những lúc chán nản, muốn bỏ cuộc. Phải chỉ ra được nguyên nhân vì sao lại có sự thay đổi trong tư tưởng của người kể (từ chỗ học sinh kém quyết tâm vươn lên học khá. Như vậy, có thể tạo một tình huống bất ngờ, cho nhân vật nhận ra nỗi khổ vì học kém, từ đó nuôi ý chí vươn lên,...).
Đề 7 : - Yêu cầu : Kể lại câu chuyện mình trở thành "cô chủ nhỏ", thay mẹ làm mọi việc trong gia đình khi mẹ bị ốm. Với nội dung này, người kể phải tự tìm ra các chi tiết diễn biến của câu chuyện (tức là phải có sự sáng tạo).
- Yêu cầu về hình thức : Nên dùng ngôi thứ nhất để kể chuyện. Tình huống chính thì đề ra đã chọn (mẹ bị ốm, em trở thành cô chủ nhỏ). Từ tình huống ấy, người kể phải biết đan xen giữa những tình tiết kể lại công việc mình đã làm với những cảm xúc, những suy nghĩ (thương mẹ, lo lắng cho sức khỏe của mẹ, muốn được giúp mẹ, tự thấy mình đã khôn lớn,...).
- Một số lưu ý : Phải đảm bảo tính hợp lí (cô chủ nhỏ làm thay công việc của mẹ, nhưng chỉ nên dừng lại những công việc vừa sức : đi chợ, nấu cơm, nấu cháo, lấy thuốc, lấy nước, quạt cho mẹ, dỗ em,...). Trong câu chuyện nên dùng một số lời hội thoại giữa hai mẹ con. Có thể để cho người mẹ khen ngợi, động viên,...
Đề 8 : - Yêu cầu về nôi dung : Câu chuyện kể phải nói lên được sự gắn bó giữa người kể với những người xung quanh mình (có thể là những người lớn tuổi, có thể là những người bạn cùng tuổi,...). Theo yêu cầu của đề ra thì chỉ cần đề cập tới một kỉ niệm đáng nhớ (không được kể lan man và kỉ niệm được kể phải thật sâu sắc thì mới đáng nhớ).
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Dùng ngôi kể thứ nhất. Cốt truyện phải hấp dẫn với tình huống bất ngờ và cách xử lí tình huống thông minh, sáng tạo. Người kể phải là người trong cuốc, chứng kiến toàn bộ diễn biến của câu chuyện...
- Cốt truyện tham khảo : "Trong xóm em có người khó tính nổi tiếng (có thể là một ông lão cáu kỉnh, một bà lão lắm điều,...) khiến cho mọi người xung quanh cảm thấy ngại, không muốn tiếp xúc - nhất là lũ trẻ. Nhưng trong vườn nhà người ấy lại có một cây ổi đào rất ngon khiến cho lũ trẻ nhiều hôm đứng ngoài, nhìn vào thèm thuồng. Một hôm, lũ trẻ bàn chuyện trộm ổi. Đầu têu trò này chính là em. Bàn xong kế hoạch thì lại đùn đẩy nhau vì ai cũng sợ. Em nổi máu "iêng hùng" xung phong trèo tường lẻn vào. Cả bọn nấp sẵn ở gần đó đợi kết quả. Rồi một tình huống xảy ra : Khi đã trèo lên ngọn ổi, đang hoa mắt trước những trái ổi chín thơm nức thì em giật mình vì nghe tiếng chó sủa. Rồi tiếng hắng giọng của chủ nhà.
Luống cuống sợ hãi, em hụt chân bị ngã, không biết trời đất gì. Khi tỉnh lại thấy mình đang nằm trên giường của nhà ông lão (hoặc bà lão) khó tính ấy. Xung quanh là những gương mặt thân quen : bố, mẹ, lũ bạn, ông lão (bà lão) chủ nhà,... Không ai mắng em một câu nào, chỉ lo lắng. May mà em không bị gãy chân, gãy tay, chỉ đau ê ẩm. Khi cho em về nhà, ông lão (bà lão) chủ nhà còn gửi theo cả một túi ổi thơm nức và dặn chung cả bọn trẻ : "Bao giờ muốn ăn ổi thì phải vào xin, không được tự ý trèo cây". Từ đó ông lão (bà lão) chủ nhà không còn đáng sợ đối với lũ trẻ. Thậm chí em và lũ trẻ còn thấy ông (bà) thật gần gũi, thân thiết".
Đề 9 : - Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện kể phải nói lên được một lỗi lầm của em đối với ông (bà) khiến cho em cảm thấy hối hận. Theo yêu cầu của đề, không được kể lan man dài dòng, mà chỉ nên chọn một tình huống cụ thể.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt : Cũng dùng ngôi kể thứ nhất. Câu chuyện muốn hấp dẫn thì phải tạo được tình huống. Số lượng nhân vật có thể là : em (người kể chuyện), ông (hoặc bà), bố, mẹ,... Nên đưa vào chuyện một số chi tiết nói lên lỗi lầm. Có thể dùng một số câu hội thoại.
- Những tình huống (lỗi lầm) có thể xảy ra : tỏ thái độ vô lễ hoặc thiếu tình cảm đối với ông (bà), không nghe lời ông (bà),...
Đề 10 : - Yêu cầu về nội dung : Kể lại một câu chuyện nói lên tình cảm của anh em (chị em) trong một gia đình. Tình huống chuyện đã được nêu rõ : Người em làm hỏng một thứ đồ chơi nào đó của chị (anh). Cách giải quyết tình huống như thế nào là do người kể chuyện tự tìm. Có thể coi đây là một dạng đề đòi hỏi sự sáng tạo.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Đề cho trước hai nhân vật chính : hai chị em (hoặc hai anh em). Ngoài hai nhân vật này có thể bổ sung thêm một vài nhân vật phụ khác : bố, mẹ hoặc ông, bà. Có thể dùng ngôi kể thứ nhất (để cho một trong hai nhân vật chính trực tiếp kể chuyện); hoặc dùng ngôi kể thứ ba.
- Một số cách giải quyết tình huống :
+ Người em sau khi làm hỏng đồ chơi đã không dũng cảm nhận lỗi, nhưng người chị (anh) đã rộng lượng tha thứ khiến cho người em cảm thấy ân hận.
+ Khi người em làm hỏng đồ chơi, người chị (anh) đã tỏ ra tức giận, bắt em phải đền, hoặc khóc lóc. Người em dỗ dành, hoặc tự nguyện lấy một thứ đồ chơi khác của mình đến cho chị (anh). Sau đó, người em có thể theo bố, mẹ, ông, bà đi xa (về quê hoặc đi tham quan). Người chị (anh) cảm thấy ân hận và nhớ em.
Đề 11 : - Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện kể phải đề cập tới kết quả của một lần vì mải chơi và em đã không học bài. Đề ra chỉ mới nêu tình huống, chưa có cách giải quyết và kết cục cụ thể. Do đó, người kể phải tự hình dung ra diễn biến của câu chuyện để kể lại. Đây cũng là dạng đề đòi hỏi sự sáng tạo.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Nên kể theo ngôi thứ nhất (người kể là người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào tình huống truyện). Theo cách dẫn dắt của dồ ra thì người dẫn truyện ngoài việc nêu lên các tình tiết, sự kiện còn phải trực tiếp bày tỏ tâm trạng của mình. Thời gian diễn ra câu chuyện không cần dài (chỉ cần một buổi tối và một buổi sáng hôm sau), về nhân vật, ngoài nhân vật chính đứng ra dẫn truyện có thể thêm một số nhân vật phụ : lũ trẻ trong xóm, thầy giáo,...
Trong câu chuyện có thể dùng một số lời hội thoại trực tiếp ở phần đầu (khi lũ trẻ rủ rê chơi trò đánh trận giả); còn phần sau của câu chuyện chủ yếu tập trung diễn tả tâm trạng của người kể (lo lắng và bất lực vì không làm được bài, hối hận, tự trách mình,...).
Đề 12 : - Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện kể nên tập trung vào một nội dung cụ thể : "công cha" hoặc "nghĩa mẹ". Nội dung cần cụ thể với những tình huống, những chi tiết diễn ra tại một thời điểm, một không gian nhất định. Không nên sa vào phát biểu cảm nghĩ về "công cha" hoặc "nghĩa mẹ". Dù kể nội dung nào thì câu chuyện phải có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
- Yêu cầu về hình thức diễn dạt : Có thể chọn kể ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba. Dù kể ở ngôi nào thì nhân vật phải có tên cụ thể, có đặc điểm hình dáng và tính cách cụ thể, và nhất là phải đạt trong tình huống cụ thể. Nếu kể ở ngôi thứ nhất thì ngoài việc dẫn dắt các tình tiết của câu chuyện, người kể phải bày tỏ được những suy nghĩ, tình cảm của mình đối với "công cha" ("nghĩa mẹ").
Đề 13 : - Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện kể phải làm nổi bật một kỉ niệm về tình bạn. Kỉ niệm ấy gắn với một tình huống cụ thể (tình cảm đối với một người bạn mới làm quen nhân dịp cùng bố mẹ đi tham quan hoặc du lịch).
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt : Nên chọn ngôi kể thứ nhất. Các nhân vật tham gia vào câu chuyện gồm : em - vai người kể và người bạn mới quen (có thể cho nhân vật người bố hoặc người mẹ xuất hiện). Nên kể dưới dạng hồi tưởng (nhân một sự kiện nào đó để nhớ lại chuyện cũ). Người kể phải dựng được tình huống làm quen một cách hợp lí, phải làm nổi bật được đặc điểm ngoại hình cũng như tính cách của người bạn, nhất là phải tập trung vào một kỉ niệm cụ thể, sâu sắc (không nên kể tràn lan).
Đề 14 : Nội dung câu chuyện phải liên quan đến đề tài bảo vệ môi trường. Tuy vậy qua cách dẫn dắt của đề ra, ta có thể thấy rõ người làm bài phải sáng tạo một cốt truyện cụ thể để viết một tác phẩm dự thi nói về đề tài "bảo vệ môi trường" đúng theo mục đích yêu cầu của đợt thi sáng tác.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt : Đây là một câu chuyện nhỏ tham gia cuộc thi, do đó nó phải có hình thức của một tác phẩm văn học hơn là một bài văn. Không cần phải nhắc tới lí do viết truyện, cũng không cần nhắc tới cuộc thi, nên đi thẳng vào diễn biến cốt truyện. Về ngôi kể, có thể chọn ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba tuỳ ý. Mặc dù trong đề ra có nhắc tới đề tài "bảo vệ môi trường", nhưng khi làm bài không nhất thiết phải đưa cụm từ này vào. Nên để cho nội dung câu chuyện tự toát lên ý nghĩa.
Đề 15 : - Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện kể phải khái quát lên được tình cảm gia đình (hoặc một tình cảm nào đó : tình cảm bạn bè, tình thầy trò,...) thông qua một tình huống truyện cụ thể : một cô bé (cậu bé) gặp trường hợp. đi học mà rơi vào hoàn cảnh mưa, lạnh, không có áo ấm và ni lông. Để ra chỉ gợi mở tình huống, đòi hỏi người kể chuyện phải sáng tạo, hình dung ra sự phát triển của tình huống truyện và cách giải quyết. Ý gợi mở rất rộng, ngoài nhân vật chính gặp hoàn cảnh đặc biệt, đề ra không nhắc tới một nhân vật nào, cũng không hé mở bất cứ một cách giải quyết nào. Chỉ biết rằng nhân vật chính của câu chuyện rất cần sự giúp đỡ và chắc chắn phải nhận được sự giúp đỡ. Nếu muốn ca ngợi tình cảm gia đình thì người xuất hiện để giúp đỡ em bé là ông, bà, cha, mẹ,... Nếu muốn ca ngợi tình bạn thì người giúp đỡ là một học sinh khác...
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Nhân vật không cần nhiều, chỉ từ hai đến ba nhân vật là đủ. Để làm nổi bật được tình huống truyện, phải xen vào những đoạn văn tả (tả thời tiết, tả tâm trạng lo sợ của nhân vật,...). Cách giải quyết tình huống cũng phải thật bất ngờ (khi nhân vật chính của câu chuyện quá lo lắng hoảng sợ và trời cứ tối dần, nhân vật thứ hai mới được xuất hiện...).
Đề 16 : - Yêu cầu về nội dung : Dù lời dẫn dắt của đề ra có nhắc tới Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, vua Hùng, nhưng nội dung cốt truyện lại không phụ thuộc vào truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. Câu chuyện mà để yêu cầu kể đòi hỏi phải thực sự sáng tạo và là sản phẩm của trí tưởng tượng. Nội dung câu chuyện phải đề cập tới việc vị thần núi Sơn Tinh hiên lên, giúp cho con người chống lại Thuỷ Tinh.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Nên dùng ngôi kể thứ ba. Các nhân vật xuất hiện trong câu chuyện gồm : con người (không nên nêu tên cụ thể), Thuỷ Tinh, Sơn Tinh. Trong quá trình xây dựng hình tượng nhân vật, có thể vận dụng những đặc điểm tính cách, tài năng của hai nhân vật Sơn Tinh, Thuỷ Tinh như trong truyền thuyết cũ. Tuy nhiên bên cạnh đó cần có cái nhìn hiện đại đối với các nhân vật. Để câu chuyện hấp dẫn và có ý nghĩa giáo dục cao thì phải tạo nên được những tình huống cụ thể, phải sử dụng văn miêu tả (tả hình ảnh hai vị thần, tả sự thắng thế của thần nước, tả cảnh con người được tiếp sức chống lại nạn lũ lụt,...).
- Lưu ý : Nguyên nhân của nạn lũ lụt mà Sơn Tinh đề cập tới trong câu chuyện chính là do con người tàn phá rừng đầu nguồn, không chăm lo việc đê điều,...
Đề 17 : - Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện kể phải ghi lại được cuộc trò chuyện lí thú giữa một ngọn núi và một con suối. Đề ra đã nêu rõ đặc điểm tính cách của từng nhân vật (được nhân hoá). Thông qua nội dung câu chuyện, người kể phải làm toát lên được ý nghĩa giáo dục thật sâu sắc.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Nên kể ở ngôi thứ ba, và chỉ cần hai nhân vật: ngọn núi và dòng suối. Mỗi nhân vật phải thể hiện tính cách phù hợp với đặc điểm ngoại hình : ngọn núi to lớn sừng sững, suốt đời dứng yên một chỗ thì tính tình điềm đạm, chín chắn (gọi là bác Núi); còn dòng suối có thân hình mềm mại chảy suốt đêm ngày được ngao du đây đó thì tính tình huênh hoang, lả lướt, thích rong chơi (gọi là cô Suối)... Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật cần ngắn gọn nhưng phải làm toát lên được quan điểm sống cũng như tính cách của mỗi nhân vật. Kết thúc chuyện phải bất ngờ và mang tính giáo dục (dòng suối phải nhận ra sự sai lầm trong lối sống và suy nghĩ của mình).
Đề 18 : Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện kể phải ghi lại được cảnh chia tay xúc động giữa người mẹ và Thánh Gióng. Thực ra đây là một câu chuyện truyền thuyết đã được lưu truyền nhưng chi tiết chia tay chưa được nói tới. Như vậy nội dung kể hoàn toàn mới, đòi hỏi người kể phải thực sự sáng tạo. Qua câu chuyện, người kể phải làm toát lên được tấm lòng của một người mẹ Việt Nam (thương con, lo lắng cho sự an nguy của con, nhưng lại dũng cảm gạt tình riêng để hướng tới trách nhiệm đối với cộng đồng, nhắc nhở con làm tròn sứ mệnh mà nhân dân, đất nước đã dành cho). Đồng thời qua câu chuyện cũng phải làm toát lên được vẻ đẹp hình tượng Thánh Gióng (thương mẹ, yêu nước, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước). Cuộc chia tay phải thể hiện sự lưu luyến, bịn rịn nhưng lại toát lên không khí anh hùng ca.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt : Nên kể theo ngôi thứ ba. Để làm nổi bật cuộc chia tay và tính cách các nhân vật, có thể đan xen giữa những mẫu đối thoại những đoạn văn miêu tả thật đặc sắc (tả hình ảnh Thánh Gióng đang cưỡi trên lưng ngựa sắt, tả hình ảnh người mẹ già nua nhỏ bé, tả không khí chia tay,...), lời thoại cũng cần phải lựa chọn. Nên dùng cách nói của người xưa (cách dùng từ ngữ, hình ảnh, cách biểu lộ tình cảm). Không nên hiện đại hoá hình thức kể chuyện đối với bài văn này.
Đề 19 : Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện phải ghi lại được lời tâm sự của một cây bàng non trong một tình huống cụ thể : bị lũ trẻ bẻ gãy cành, làm rụng lá. Nội dung lời tâm sự vừa thể hiện được sự đau đớn xót xa, vừa toát lên thái độ oán trách. Thông qua câu chuyện, người kể phải giúp cho bạn đọc rút ra được bài học về ý thức bảo vệ môi trường.
- Yêu cầu về hình thức diễn dạt : nên dùng ngôi kể thứ nhất, nhân vật trung tâm chính là người dẫn truyện (cây bàng non). Nghệ thuật nhân hoá phải được sử dụng một cách sáng tạo, hợp lí. Dưới hình thức là lời tâm sự nhưng thực chất đây là một câu chuyện kể có tình huống, có chi tiết, có nguyên nhân, hậu quả,... xen vào đó là những câu văn bộc lộ thái độ, tâm trạng của cây bàng non.
Phần mở đầu có thể chọn một tình huống dẫn dắt để cây bàng tâm sự (mở theo lối gián tiếp), cũng có thể đi ngay vào lời tâm sự không cần qua nhân vật trung gian (mở theo lối trực tiếp).
Đề 20,21, 22 : Yêu cầu về nội dung và hình thức diễn đạt tương tự như Đề 19, chỉ cần thay đối tượng tâm sự và tình huống, lí do tâm sự.
Đề 23 : Yêu cầu về nội dung: Câu chuyện phải toát lên được hình ảnh và cuộc đời cây tre : đặc điểm hình dáng, hoàn cảnh sống, phẩm chất,... (có thể tham khảo thêm bài viết Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới và bài thơ Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy). Thông qua cuộc đời cây tre, người kể phải gợi cho người đọc thấy được sự gần gũi, thân thiết giữa cây tre và con người Việt Nam. Hay nói cách khác, đằng sau hình ảnh cây tre chính là hình ảnh con người.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt : Cây tre tự kể về cuộc đời mình, tức là câu chuyện phải dùng ngôi kể thứ nhất. Nhân vật cây tre phải được nhân hoá.
Lời kể tự nhiên dưới dạng giới thiệu, tâm tình, không nên sa vào phát biểu cảm nghĩ về cây tre.
Đề 24 : Yêu cầu về nội dung : Đây là một câu chuyện tưởng tượng về thế giới thiên nhiên. Đề ra chỉ gợi cho người viết về số lượng nhân vật, về tình huống, còn người kể chuyện tự xác định nội dung. Dù chọn nôi dung như thế nào thì câu chuyện cũng phải mang ý nghĩa giáo dục (ca ngợi đất mẹ, ca ngợi mùa xuân, ca ngợi sức sống của cỏ cây, hoa lá).
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Nên kể theo ngôi thứ ba. Số lượng nhân vật chỉ cần đúng theo gợi ý của đề : Cây Bàng, Đất Mẹ, lão già Mùa Đông và nàng tiên Mùa Xuân. Các nhân vật phải được giới thiệu và miêu tả với đặc điểm hình dáng và tính cách cụ thể, được đặt trong tình huống cụ thể : Từ mùa đông chuyển sang mùa xuân, cây cối như được tiếp thêm sức sống mới. Cây Bàng về mùa đông thì phải gầy guộc, run rẩy, cầu cứu Đất Mẹ. Đất Mẹ điềm đạm, dịu dàng động viên Cây Bàng dũng cảm chờ đợi Mùa Xuân; lão già Mùa Đông thì già nua, cáu kỉnh, độc ác, xấu xí; nàng tiên Mùa Xuân xinh đẹp, dịu dàng, trẻ trung,... Thông qua cách kể phải làm toát lên được sự đối đầu giữa một bên là sự sống (Cây Bàng, Đất Mẹ, Mùa Xuân), một bên là sự tàn lụi, chết chóc (Mùa Đông).
Đề 25 : - Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện được kể phải giới thiệu về cuộc thi "vẻ đẹp tuổi hoa" của các loài hoa khi mùa xuân tới. Đây là một câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng, nhưng phải toát lên được ý nghĩa giáo dục đối với tuổi thơ cũng như ca ngợi vẻ đẹp kì diệu của thế giới các loài hoa khi mùa xuân về.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt : Nhân vật Hồng Nhung Bé kể lại cuộc thi, tức là phải dùng ngôi thứ nhất. Ngoài nhân vật Hồng Nhung Bé phải có sự tham gia của nhiều nhân vật khác nữa (bố mẹ Hồng Nhung, một số loài hoa khác, người dẫn chương trình, rồi các vị giám khảo cũng là các loài hoa được gọi tên cụ thể). Nghệ thuật nhân hoá phải được thể hiện từ cách gọi tên nhân vật, cho đến những đặc điểm, hình dáng, tính cách và các hoạt động. Xen vào lời kể phải là những câu, những đoạn miêu tả đặc sắc (tả hình dáng các loài hoa, tả không khí cuộc thi).
Đề 26 : Yêu cầu về nội dung : Đề ra chỉ nêu lên một tình huống : có bông lúa bị rơi bên vệ đường, hoàn toàn không nêu trước nội dung diễn biến. Như vậy, người kể phải tưởng tượng ra một cốt truyện có liên quan tới bông lúa ấy. Thông qua cốt truyện tưởng tượng để lồng vào ý nghĩa giáo dục đối với con người. Yêu cầu về hình thức diễn đạt : có thể chọn ngôi kể thứ nhất hoặc ngôi kể thứ ba. Ngoài nhân vật bông lúa, cần bổ sung thêm các nhân vật khác nữa tuỳ thuộc vào nội dung cốt truyện được lựa chọn (một bác nông dân, một cô bé,...). Nghệ thuật nhân hoá phải được sử dụng một cách hợp lí.
- Một vài cách giải quyết tình huống :
+ Bông Lúa đang buồn rầu vì bị bỏ rơi thì một nhóm người xuất hiện. Họ phát hiện ra Bông Lúa. Bông Lúa cầu cứu thì nhận được nhiều cách đối xử khác nhau thể hiện quan điểm sống của mỗi người : Người thì reo lên khi phát hiện ra Bông Lúa bên vệ đường, định nhạt thì người khác gạt đi. Họ định lặng lẽ bỏ qua (nhưng người đi sau cùng cúi xuống nhặt Bông Lúa đưa về nhà).
+ Bông Lúa đang buồn rầu, sợ hãi thì một Con Gà xuất hiện định mổ nó. Bông Lúa đang tuyệt vọng thì hai cậu bé xuất hiện. Con Gà sợ hãi bỏ chạy. Hai cậu bé bàn nhau nhặt Bông Lúa về cho vịt ăn khiến Bông Lúa bàng hoàng. Lại một cô bé nữa xuất hiện. Nghe dự định của hai câu bé, cô bé đã phản đối. Sau đó cô nâng Bổng Lúa lên, đưa về nhà, gieo những hạt lúa vào một khoảng đất và hi vọng từ những hạt lúa ấy sẽ cho nhiều bông lúa chắc mẩy khác ở mùa sau.
Đề 27 : Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện kể phải làm nổi bật bài học giáo dục mà chú sẻ Con bướng bỉnh tự rút ra được qua tình huống : Sẻ ta không nghe lời dạy của mẹ nên đã gặp nhiều thất bại ; khi hiểu được điều đó, chịu khó rèn luyện thì mới thành công. Đó cũng chính là bài học giáo dục dành cho con người.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Nên kể theo ngôi thứ ba. Đây là câu chuyện tưởng tượng, nhân vật là các loài vật (Sẻ Mẹ, sẻ Con và một loài vật khác nữa). Do đó cần dùng nghệ thuật nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm tính cách của từng nhân vật. Trong câu chuyện phải xuất hiện tình huống (Sẻ Con không chịu nghe lời mẹ nên đã thất bại khi tập bay). Diễn biến câu chuyện ra sao là tuỳ thuộc vào trí tưởng tượng của người kể. Tuy nhiên, dù chọn hướng giải quyết nào thì cũng phải toát lên được bài học cho Sẻ Con. Trong quá trình kể, ngoài việc giới thiệu các tình tiết thì có thể đưa vào các mẫu đối thoại, có thể đan xen vào những câu văn nêu ý nghĩ của Sẻ Con.
Đề 28 : Yêu cầu về nội dung : Bài văn phải ghi lại được cuộc trò chuyện lí thú giữa hai nhân vật : Giọt Nước Mưa Đọng Trên Lá Non và Vũng Nước Đục Ngầu Trong Vườn. Qua cuộc trò chuyện lí thú này, người kể phải gửi gắm trong đó một nội dung giáo dục cụ thể. Đây là một câu chuyện tưởng tượng hoàn toàn.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Nên dùng ngôi kể thứ ba và chỉ cần hai nhân vật mà đề ra đã nêu. Mỗi nhân vật phải thể hiện được một vài nét về đặc điểm hình dáng, tính cách, một quan điểm sống (tức là đã được nhân hoá). Giọt Nước Mưa Đọng Trên Lá Non thì xinh đẹp nhưng kiêu ngạo và không tự biết mình ; Vũng Nước Đục Ngầu Trong Vườn thì điềm đạm, hiểu rõ công việc mình đang làm, không quan tâm đến hình thức,... Gọi là cuộc trò chuyện nên rất cần các mẩu đối thoại. Lời hội thoại phải ngắn gọn mà sâu sắc, thể hiện được tính cách của từng nhân vật.
- Một số cách kết thúc có thể sử dụng cho câu chuyện này:
+ Khi trời về trưa, nắng gắt thì Giọt Nước Mưa bị tan biến một cách vô nghĩa, còn Vũng Nước thì rất hài lòng với ý nghĩa công việc mình đang làm : tiếp nước cho cây.
+ Giọt Nước Mưa nhún nhảy, vênh váo. Đột nhiên một làn gió lướt tới, cành cây rung rinh.
- Giọt Nước Mưa chưa kịp định thần thì đã rơi tõm xuống Vũng Nước. Bộ áo cánh lộng lẫy của nó đã bị nhuốm bùn, trông chẳng khác gì bác Vũng Nước. Giọt Nước Mưa chợt hiểu ra tất cả và lặng lẽ hoà mình vào Vũng Nước, thấm sâu vào lòng đất.
Đề 29 : Yêu cầu về nội dung : Bài văn phải ghi lại được câu chuyện lí thú giữa hai mẹ con nhà chim trong một tình huống cụ thể : Lần đầu tiên, chim non ra khỏi tổ để ngắm cảnh. Thông qua cuộc trò chuyện này, người kể phải làm toát lên được một số vấn đề : thái độ thích thú của chim non khi được khám phá thế giới xung quanh ; ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên cũng như cảnh sinh hoạt của con người và vạn vật dưới cái nhìn của hai mẹ con nhà chim.
- Yêu cầu về hình thức diễn dạt: Dùng ngồi kể thứ ba. Chỉ cần hai nhân vật là Chim Mẹ và Chim Con, bên cạnh những câu hội thoại ngắn gọn phải là những lời văn miêu tả đặc sắc (tả cảnh). Cũng có thể lồng lời miêu tả vào trong lời hội thoại. Qua cuộc trò chuyện, Chim Con phải thể hiện được sự ngây thơ hồn nhiên, Chim Mẹ dịu dàng âu yếm và có vốn hiểu biết khá rộng (tất cả điều đó phải được thực hiện qua nghệ thuật nhân hoá).
Đề 30 : Yêu cầu về nội dung : Câu chuyện được kể mang một nội dung có ý nghĩa nhân đạo rất sâu sắc, nhắc nhở con người có ý thức bảo vệ môi trường thiên nhiên. Qua câu chuyện về bài học mà nhân vật chính tự rút ra (hối hận vì trò chơi hái hoa bắt bướm), người kể chuyện phải đưa ra một lời khuyên đối với tất cả mọi người: Phải biết yêu mến và tôn trọng thiên nhiên.
- Yêu cầu về hình thức diễn đạt: Nên dùng ngôi kể thứ nhất, để cho nhân vật chính tự bộc bạch những suy nghĩ, thái độ của mình đối với bài học giáo dục mà bản thân tự rút ra. Lời kể phải tự nhiên, giàu cảm xúc. Ngoài nhân vật chính có thể thêm các nhân vật phụ : Bông Hoa Hồng Bị Héo, Cây Hoa Hồng Mẹ. Dù là chuyện tưởng tượng thì cũng phải đảm bảo tính chân thực.