Bài 1: Phải đạt hai yêu cầu : Đặt tên (gắn với biệt hiệu) và nêu đặc điểm ngoại hình của từng kiểu nhân vật. Muốn vậy, phải xác định trước đặc điểm ngoại hình.
Mẫu: a) Một cậu học sinh cá biệt : đặt tên (gắn với biệt hiệu) : Hùng "gồ", Hùng "lì", Hùng "sẹo",...
Đặc điểm ngoại hình : vóc người nhỏ thó, da đen bóng vì chạy ngoài nắng quá nhiều, gương mặt gầy gầy, xương xương, lông mày rậm, trán dô, tóc rẻ tre, có cái sẹo trên mất là chứng tích của một lần trèo cây bị ngã, lúc nào cũng kè kè một cái nỏ cao su, v.v.
Bài 2:
- Yêu cầu 1 - Tinh tiết truyện được sắp xếp độc đáo, để cho nhân vật ba lần kéo lưới ở ba chỗ khác nhau mà đều có thanh sắt mắc lưới. Sự nhầm lẫn của nhân vật ở lần kéo lưới thứ nhất càng tăng thêm yếu tố bất ngờ ngẫu nhiên. Cho đến lần thứ ba mới phát hiện ra đó là một thanh gươm. Chi tiết này chứng tỏ đây là ý trời.
- Yêu cầu 2 : Vận dụng nghệ thuật kể để viết đoạn văn tự sự. Muốn làm tôi yêu cầu này cần lưu ý : phải tạo được sự hiểu nhầm, sự ngẫu nhiên, tình cờ để làm nổi bật được niềm vui bất ngờ cho nhân vật.
Ví dụ : Cậu bé gặp một bài toán khó. Lần thứ nhất chỉ giải một nhoáng là ra đáp số - cậu ngạc nhiên, không dám tin. Lần thứ hai rồi lần thứ ba, cậu tìm cách giải khác, vẫn ra đáp số ấy.
Bài 3 : Có hai yêu cầu
a) Yêu cầu thứ nhất là tìm hai cốt truyện có cùng một ý nghĩa. Tìm cốt truyện nào cũng phải làm nổi bật được "bài học nhớ đời" đối với nhân vật.
Ví dụ : Cốt truyện 1 : A xin mẹ đi bơi ở hồ. Mẹ không cho. Buổi trưa, đợi mẹ đi ngủ rồi A lên đi. Ra đến hồ A gặp một cậu bạn cùng xóm cũng đang tập bơi. Ban đầu A chỉ dám bơi trong bờ. Sau đó, máu "iêng hùng" nổi lên, A bơi ra ngoài xa. Câu bạn ngăn không được. Không ngờ bị chuột rút, A chới với... May mà có anh thanh niên đi qua, cậu bạn kêu lên, anh thanh niên đã cứu được A...
Học sinh hãy tự tìm cốt truyện thứ hai.
b) Yêu cầu thứ hai là viết Mở bài theo nhiều cách khác nhau. Dù viết cách nào thì cũng nên ngắn gọn, đi thẳng vào câu chuyện và gây được hứng thú cho người đọc, người nghe (tuỳ theo cốt truyện mà chọn cách Mở bài).
Bài 4 : Yêu cầu giới thiệu nhân vật, tức là phải nêu được tên, đặc điểm ngoại hình và đặc điểm tính cách của các nhân vật.
Mẫu : a) Lời giới thiệu về một bác thương binh vui tính : Lũ trẻ trong xóm tôi đứa nào cũng quỷ bác Hưng. Bác là một thương binh thời chống Mĩ. Một cánh tay và một bàn chân của bác đã bị bom Mĩ cắt ngang. Mọi người gọi bác bằng cái tên "Hưng cụt”. Bác nhận cái tên ấy rất thoải mái. Từ ngày về làng, dù đã có chế độ đãi ngộ riêng, nhưng bác vẫn soạn một thùng đồ nghề ra đầu xóm, chỗ gốc đa, làm nghề chữa xe đạp. Chưa trông thấy mặt nhưng mọi người có thể nhận ra bác nhờ tiếng nạng gỗ gõ xuống đất "lộc cộc... cộc cộc...” và tiếng cười sang sảng. Bác rất vui tinh, lại hay kể chuyện nên bọn trẻ thường rủ nhau ra gốc đa đầu làng ngồi cùng với bác, đến hết buổi mới chịu về. Có hôm, bác còn đãi chúng tôi một cháu ngô nướng hay một rá lạc rang. Bác thường khuyên chúng tôi phải chịu khó học tập và phải biết lao động để sau này trở thành người có ích cho cuộc đời. Hôm nào trở trời, vết thương cũ tái phát, bác phải nghi ở nhà là chúng tôi lại thấy nhớ. Đứa nào cũng thơ thẩn, đi ra đi vào, chờ nghe cái âm thanh nạng gỗ "lộc cộc...” gõ xuống đường và tiếng cười vang của bác Hưng...
(Vận dụng cách viết của đoạn văn mẫu trên, học sinh hãy viết tiếp những đoạn văn còn lại).
Bài 5 : - Yêu cầu bài tập này là viết đoạn văn để kể sự việc. Tức là chú ý tới diễn biến của sự việc (có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc); phải tìm các tình huống, các chi tiết cụ thể. Kể sự việc cũng có thể xen vào một vài câu miêu tả nhân vật có liên quan tới sự việc đó.
- Mẫu :
a) Một em bé hờn dỗi vì một lí do nào đó : Bé Na đang khóc thút thít ở đầu hồi nhà. Chả là bé hờn dỗi mẹ đấy mà! Lí do thật đơn giản : Bé đòi mẹ đi chơi công viên. Mẹ đã hứa sẽ đưa bé đi chơi. Nhưng đùng một cái, hôm nay mẹ lại có việc bận ở cơ quan, thế là lời hứa không thực hiện được. Bé giận mẹ. Mặc cho mẹ dỗ dành, rồi xin lỗi, bé cứ khóc mãi. Nước mắt chảy từng hàng trên gương mặt bầu bĩnh. Bé nấc lên, có vẻ tủi thân lắm. Chú mèo mướp thấy vậy, đến cọ mình vào chân bé "meo meo" như có ý hỏi : "Việc gì mà bé Na khóc nhè thế ?". Thường ngày thì bé đã cúi xuống bế mèo lên vuốt ve rồi, nhưng hôm nay thì không được. Vì bé còn bận phải "khóc nhè" mà! Mèo ta vẫn không chịu thua, cứ quẩn quanh, "meo meo" mãi. Ý chừng mèo ta "lêu lêu" bé Na đấy ! Nghĩ thế, bé Na càng bực mình thêm. Bé lấy chân, hất mạnh một cái. Mèo ta bị bất ngờ, văng dáng vào chỗ con mực đang ngủ. Mực ta giật mình bừng dậy "gừ...", "ngao...". Cả hai con vật xù lông lên, nhe răng ra, lừ lừ nhìn nhau. Bé Na bật cười thành tiếng. Thế là không khóc được nữa. Bé chạy lại ôm lấy mèo mướp. Nước mắt vẫn còn đọng trên bờ mi.
(Theo đoạn văn mẫu trên, học sinh hãy viết tiếp những đoạn còn lại).
Bài 6 : - Yêu cầu : Triển khai câu chủ đề thành một đoạn văn. Như vậy tức là phải xác định được nội dung chính mà câu chủ đề đề cập tới. Từ ý của câu chủ đề có thể hình dung được toàn bộ đoạn văn. Lưu ý là câu chủ đề phải được giữ nguyên và đặt đầu đoạn.
Ví dụ : ở câu chủ đề (a), nội dung thông báo chính là "tôi cùng lũ trẻ trong xóm rủ nhau ra để chơi trò đánh trận giả". Toàn bộ đoạn văn được triển khai phải giới thiệu về trò chơi này (thời gian, địa điểm, diễn biến, không khí cuộc chơi,...).
- Mẫu : Buổi chiều hôm ấy, tôi cùng lũ trẻ trong xóm rủ nhau ra để chơi đánh trận giả. Mặt đê lộng gió, mát rượi. Ánh nắng nhạt dần. Hơi nước từ sông Lam phả lên, làm dịu không khí của chiều hè. Chúng tôi chia làm hai phe : Phe quân xanh do thằng Vinh làm thủ lĩnh, phe quân đỏ thì nhất trí cử tôi. Mỗi bên chiêm lĩnh một triền đề. Trận đánh bắt đầu. Những bụi cây lúp xúp, những gò đất trở thành chỗ nấp của chúng tôi. Cũng lăn lê, bò toài. Cũng hở xung phong vang trời dậy đất. Tiếng cười nói, tiếng cãi nhau chí choé làm rộn rã cả một quãng đê. Có những lúc hăng lên, chúng tôi xông vào đánh giáp lá cà. Thằng nào bị lưng chạm đất là coi như đã "hi sinh". Những chỗ chúng tôi quản nhau, bụi tung mù mịt. Đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê nhễ nhại, quần áo tóc tai bám đầy đất đỏ. Mệt mà vui ghê. Trận chiến diễn ra giằng co quyết liệt, không phân thắng bại. Quán của hai bên đã "hi sinh" quá nửa. Số còn lại quyết "tử thủ" bám giữ trên đê không cho phe kia chiếm đất. Chúng tôi đang bàn mưu tính kế đánh úp quân xanh thì đột nhiên phía bên kia triền đê, có tiếng la oai oái. Rồi thằng Vinh nhảy choi choi trên mặt đê, chân tay múa tít. Không hiểu mô té gì, chúng tôi xông lên bất sống "tướng dịch". Thằng Vinh dỡ khóc dỡ mếu đưa tay đầu hàng rồi lại nhảy choi choi. Lúc ấy chúng tôi mới vỡ lẽ. Thì ra là cu cậu lại nấp đúng chỗ có ổ kiến lửa. Những con kiến càng to đang bò khắp quần áo nó, đốt chí tử. Thế là chúng tôi vội vã khiêng thằng Vinh ra bờ sông, ném nó xuống nước. Cả bọn ào theo sau nhảy xuống sông vùng vẫy. Thế là tan cuộc chơi.
(Theo đoạn văn trên, học sinh tự viết đoạn văn còn lại)
Bài 7 : - Yêu cầu xác định :
- Câu chủ đề: Chính là câu thứ nhất của mỗi đoạn.
- Yêu cầu xác định nội dung chính : Nằm ngay ở câu chủ đề (dựa vào câu chủ đề để xác định rõ).
Bài 8 : - Yêu cầu thay ngôi kể : Chuyển đại từ tôi sang danh từ Dế Mèn (từ ngôi thứ nhất chuyển sang ngôi thứ ba).
Khi ngôi kể đã thay thì cách diễn dạt cũng phải thay đổi theo cho phù hợp.
Ví dụ : Nhưng tôi cóc sợ. Coi họ làm gì nỗi tôi tốt ! (kể ở ngôi thứ nhất). Chuyển thành : "Nhưng Dế Mèn đâu có sợ. Xem chừng thì anh Xiến Tóc cũng chẳng làm gì nổi Dế Mèn" (kể ở ngôi thứ ba).
- Thay đổi ngôi kể khiến cho đoạn văn có tính khách quan hơn. Nhưng thái độ của nhân vật lại không thể hiện rõ như ở đoạn văn dùng ngôi kể thứ nhất.
Bài 9 : - Yêu cầu thay ngôi kể, chuyển danh từ "Trọng Thuý" sang đại từ "tôi", thay Triệu Đà bằng cụm từ "phụ vương tới" (từ ngôi thứ ba chuyển sang ngôi thứ nhất).
Cách diễn đạt cũng vì thế mà thay đổi theo. Ví dụ : "Đến gần bờ biển, thấy xác vợ nằm trên thảm cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai, Trọng Thuỷ khóc oà lên, thu nhặt thi hài đem về chôn trong Loa Thành rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà chết" (kể ở ngôi thứ ba). Sang ngôi kể thứ nhất, câu văn ấy phải lách thành nhiều câu ngắn : "Đến gần bờ biển, tôi trông thấy xác Mị Châu. Nàng nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Đau đớn, bàng hoàng, tôi không dám tin đó là sự thật. Lỗi lầm này là của tôi. Không nén nỗi đau đớn, tôi oà lên khóc rồi thu nhận thi hài Mị Châu đem về chôn trong Loa Thành. Tôi làm sao có thể sống thiếu nàng được ? Chỉ có cái chết mới giúp tôi được gặp nàng. Cái chết sẽ giúp tôi vơi bớt niềm ân hận. Hãy chờ ta nhé, Mị Châu ơi!" .
- Thay đổi ngôi kể khiến cho đoạn văn mang tính chủ quan. Và vì để diễn tả cảm xúc, thái độ của nhân vật một cách trực liếp, cách diễn đạt của đoạn văn trở nên dài dòng hơn.
Bài 10 : - Yêu cầu : sắp xếp lại trật tự lời văn trong từng câu. Việc sắp xếp này phải đảm bảo tính hợp lí: Hợp nội dung diễn đạt, hợp lô gích,...
- Mẫu : a) Tên tướng giặc vô cùng hoảng sợ, phải cất râu thay áo, giả làm người dân thường để lẫn trốn.
(Theo mẫu trên, học sinh sắp xếp các câu còn lại).
Bài 11 : - Yêu cầu : Thay lời hai nhân vật, lần lượt viết thành hai đoạn văn mới có cùng nội dung với đoạn trích đã nêu (chuyển ngôi kể thứ ba thành ngôi kể thứ nhất).
- Lưu ý : Thay lời nhân vật nào thì phải để nhân vật ấy xưng tôi, và phải đặt vào vị trí của nhân vật ấy để nhìn nhận diễn biến sự việc.
Ví dụ : Nếu là Thạch Sanh tự kể chuyện thì ngay đầu đoạn không thể nói toạc ra âm mưu của mẹ con Lí Thông,...
Nếu là Lí Thông tự kể thì không thể biết được diễn biến cuộc chiến giữa Thạch Sanh với chằn tinh một cách trực tiếp, phải qua lời kể lại của Thạch Sanh mới hiểu được sự việc,...
Bài 12 : - Yêu cầu : Chọn ngôi kể và thứ tự kể cho câu chuyện được đề cập tới trong đề văn. Sau đó lí giải.
- Lưu ý : Đây là câu chuyện kể về một kỉ niệm, do đó nên xưng "tôi" (kể ở ngôi thứ nhất). Nội dung có tính chất hồi tưởng nên thứ tự kể có thể đi từ hiện tại, quay trở về quá khứ để lí giải rõ (không nên lẫn lộn giữa thứ tự kể với diễn biến cốt truyện).
Bài 13: a) Cách dùng từ ngữ trong lời hội thoại của đoạn văn : để cho nhân vật thầy đồ Cóc dùng nhiều từ Hán Việt để nói chữ. Vì nhại lại để giễu cợt nên lời đáp của Dế Mèn cũng dùng kiểu diễn đạt này.
b) Thay thế các từ Hán Việt bằng từ thuần Việt để viết lại đoạn văn (Ví dụ : "Hà cớ mà nhị vị tráng sĩ du nhàn qua bản thôn ?" có thể đổi thành : "Vì lí do nào mà hai vị tráng sĩ nhàn nhã qua chơi thôn xóm của tôi ?").
Lưu ý : Có những từ Hán Việt không cần phải thay (tráng sĩ,...).
c) So sánh và lí giải: Đoạn văn viết lại có nội dung diễn đạt dễ hiểu hơn đoạn văn gốc.
Lí do mà Tô Hoài chọn cách viết trên : Để làm nổi bật nét tính cách đáng mỉa mai, giễu cợt của thầy đồ Cóc : Đó là cái bệnh hay nói chữ mà không thèm hiểu nghĩa.
Bài 14 : - Yêu cầu : Chuyển đoạn văn tự sự có câu hội thoại gián tiếp thành đoạn văn tự sự có câu hội thoại trực tiếp.
- Lưu ý : Chỉ chuyển những câu có ý hội thoại:
Ví dụ : "Thấy lạ, tôi hỏi thì ông trả lời rằng đây là cây mai mà một người đồng đội cũ của ông đã đem từ miền Nam ra tặng" (Câu có lời thoại gián tiếp).
Chuyển : "Thấy lạ, tôi hỏi:
- Ông ơi ! Vì sao ông lại nói chuyện có vẻ thân mật với cây mai thế ?
Ông tôi trả lời:
- Đây là cây mai mà một người đồng đội cũ của ông đã đem từ miền Nam ra tặng đấy cháu ạ !" (Đoạn có lời thoại trực tiếp).
Bài 15 : - Yêu cầu : Từ cốt truyện đã cho để viết thành đoạn truyện ngắn. Các nhân vật trong truyện đã được nhân hoá (Gồm : quần dài, áo, dép phải, dép trái). Riêng nhân vật cậu bé thì có thể đặt tên và để ở ngôi thứ ba. Có thể dùng các lời hội thoại trực tiếp.
Mẫu : Đồ dùng để ở đâu
Minh nhìn lên đồng hồ. Đã đến giờ đi học. Minh cuống cuồng tìm quần áo để mặc. Nhưng chú bé không thấy quần dài, không thấy áo, không thấy dép đâu cả.
Minh gắt lên :
- Quần áo ta đâu rồi ?
Quần lên tiếng :
- Tôi đây ! Tôi đây : Tôi ở trong xó tủ. Tối qua anh nhét tôi vào đây cơ mà.
- Áo ta đâu ?
- Tôi ở đây ! Trên đỉnh màn này. Tối qua anh vứt tôi lên đây cơ mà ! - Chiếc áo nhăn nhúm kêu lên như vậy.
- Dép của ta ở đâu ?
- Tôi đây ! Dưới gầm tù ấy! - Chiếc dép bên phải trả lời, chiếc bên trái nằm im thin thít. Nó không nghe thấy tiếng Minh hỏi. Nó nằm ngoài cửa.
Cuối cùng, Minh cũng mặc xong quần áo và tìm thấy dép. Nhưng trống vào học đã đánh rồi. Minh chạy bở hơi tai mà vẫn chậm. (Nhị Hà, dẫn theo Tiếng Việt 2, tập hai, NXB Giáo dục, 2000).
Bài 16 : - Yêu cầu : Viết đoạn văn tự sự ghi lại cuộc đối thoại giữa hai quyển sách giáo khoa cũ và mới. Do dó, phải dùng nghệ thuật nhân hoá. Lời đối thoại phải dí dỏm, thể hiện thái độ của từng nhân vật.
- Lưu ý : Quyển sách giáo khoa cũ thì tỏ thái độ buồn rầu, quyển sách giáo khoa mới thì tỏ thái độ tự tin, có phần ngây thơ (vì nó chưa hiểu về cậu chủ nhỏ). Trong lời đối thoại giữa hai nhân vật nên nhắc tới cậu chủ nhỏ này với thái độ phê bình.
Bài 17 : - Yêu cầu : viết đoạn văn hội thoại. Nhân vật là hai học sinh (có thể đặt tên cho từng nhân vật). Đề tài là bảo vệ môi trường (nên đi vào một khía cạnh nhỏ : hoặc vấn đề bảo vệ cây xanh, hoặc vấn đề xử lí rác thải), về hình thức, đoạn văn phải chứa các kiểu dấu câu thật linh hoạt (dấu chấm hỏi, dấu chấm lửng, dấu chấm than). Thực chất, đi kèm với các loại dấu câu ấy chính là các kiểu câu thường dùng trong hội thoại.
- Lưu ý : Lời hội thoại cần ngắn gọn, có thể kèm thêm các từ ngữ thể hiện thái độ của người nói. Trong nội dung của đoạn văn, nên để cho một nhân vật phạm lỗi, nhân vật kia nhắc nhở.
Bài 18 :
a) Phát hiện lỗi của đoạn : Chủ yếu là lỗi lô gích (câu chuyện kể có một số chi tiết chưa hợp lí: Khi chị học sinh bị tai nạn, nhân vật kể chuyện "dìu chị ấy đến trạm xá" và sau đó "ba chân bốn cẳng ù chạy đến lớp". Còn hai chiếc xe đạp biến đi đâu ? Hoặc chi tiết : Chiếc xe đạp "lăng cả bánh" vì đường "trơn như đổ mỡ", vậy mà ở câu sau, người kể lại tả rằng mình "hối hả đạp thật nhanh". Như vậy là ý mâu thuẫn nhau).
b) Chữa lỗi và viết lại đoạn : Muốn chữa lỗi thì phải thay đổi các chi tiết chưa hợp lí đã nêu trên.
Bài 19 : - Yêu cầu : Viết lại đoạn văn đã cho theo hướng sửa lại các lỗi diễn đạt (sử dụng câu hội thoại trực tiếp chưa đúng). Muốn vậy, người viết lại đoạn văn phải xác định lời hội thoại trực tiếp nằm ở câu văn nào trong đoạn đã cho.
- Lưu ý : Cần dùng các kiểu câu khác nhau để diễn đạt lời hội thoại.
Ví dụ : Từ câu "Tôi xẳng giọng hỏi có phải cậu vẽ bậy lên bàn tớ không." (là câu trần thuật) có thể diễn đạt lại như sau :
Tôi xẵng giọng hỏi Sơn :
- Có phải cậu vẽ bây lên bàn tớ không ? (Câu nghi vấn).
Bài 20 : - Yêu cầu : Viết một đoạn văn ghi lại cuộc trò chuyện giữa hai nhân vật ngói cũ và ngói mới. Như vậy đây cũng là đoạn hội thoại. Các nhân vật phải được nhân hoá. Về cách diễn đạt, nên dùng lời hội thoại trực tiếp.
- Lưu ý : Đoạn văn không cần dài quá. Lời hội thoại nên ngắn gọn và thể hiện được thái độ, tính cách của từng nhân vật: Ngói mới thì kiêu ngạo, hợm hĩnh, còn ngói cũ thì điềm đạm,...